Nham trà là gì?
Nham trà (Yancha / Rock tea / 岩茶) tức trà núi đá, Hán Việt còn gọi là ‘nham trà’ (nham thạch có nghĩa là đá từ núi lửa), đây là một loại trà ô long hoặc hồng trà, mọc trên núi Vũ Di (Vũ Di sơn/ Wuyi shan / 武夷山) ở tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc. Vũ Di phổ biến làm trà ô long đỏ, dạng rời, tên trà cũng đồng thời là tên giống cây trà nguyên liệu.
Loại Nham Trà nổi tiếng nhất là Đại Hồng Bào (là một trong tứ đại danh trà ô long Si Da Ming Cong – 四大名丛) chế biến theo loại trà ô long. Khu vực núi Vũ Di đã là một trung tâm lịch sử quan trọng về sản xuất chè từ giữa thế kỷ 17 và vẫn tiếp tục như vậy cho đến ngày nay.
Vùng núi Vũ Di ở tỉnh Phúc Kiến của Trung Quốc có 39 đỉnh, 99 thung lũng và một con sông có 9 khúc cua. Mặc dù các đỉnh núi không cao nhưng chúng thường xuyên bị bao phủ bởi sương mù và sương mù. Nắng chiều xuyên qua làn sương nhẹ tạo nên những cầu vồng nhảy múa quanh những bụi chè. Hơi ẩm đọng lại trên các sườn đá của sườn núi rồi chảy xuống những tảng đá này, xuống tận rễ cây chè, do đó làm giàu khoáng chất cho chúng. Như vậy, sự độc đáo của những vách đá mà trà ô long Vũ Di nổi tiếng đã ra đời.
Điều gì khiến Nham trà trở nên đặc biệt?
Điều làm cho Nham Trà trở nên đặc biệt chính là địa hình độc đáo, vô số sườn dốc và đỉnh núi sắc nhọn bao phủ những ngọn núi này. Kết quả là một lượng tương đối nhỏ bụi chè phải cố gắng để tồn tại. Hàm lượng khoáng chất của những ngọn núi cũng tạo thêm hương vị ‘đá’ độc đáo cho các loại trà được sản xuất ở đó, điều mà thế giới trà rất ưa chuộng.
Ô long Vũ Di có hương vị đậm đà khi rang, dùng để tạo ra trà ô long và hồng trà. Người nông dân luôn xoắn trà thành từng dải mỏng thay vì vo tròn như ô long ở các vùng khác. Nham trà có thể cực kỳ đắt tiền, như loại trà Đại Hồng Bào được làm từ những cây trà cổ thụ nguyên thủy được ví có giá trị hơn vàng.
Tuy nhiên, không phải tất cả Nham trà đều đắt, hầu hết các loại trà từ Dãy núi Vũ Di đều cực kỳ ngon và đáng để thưởng thức trong khi giá cả phải chăng. Khi thưởng thức trà núi Vũ Di, hãy chú ý rằng các thành phần đá và khoáng chất được cân bằng hoàn hảo với hương hoa ngọt ngào.
Top Nham trà Vũ Di nổi tiếng nhất
Tứ đại danh trà Ô Long: thường có độ oxi hóa cao từ 60-80%.
- Đại Hồng Bào (Da Hong Pao / 大红袍 / Big Red Robe) là ô long đắt giá và nổi tiếng nhất, lên men cao gần bằng hồng trà. Vị ngọt, khoáng, rang, dày và mịn.
- Thiết La Hán (Tie Luo Han/ Tieluohan / 铁罗汉): ‘thiết’ đồng nghĩa với trà, do người miền Tây Nam đất Thục gọi. Vị ngọt ngào, đậm đà và thơm. Nước trà có màu nhạt hơn, hương vị tròn đầy đủ với hương hoa nhẹ nhàng và hậu vị bền lâu.
- Thủy Kim Quy (Shui Jin Gui/ 水金龟): Có màu xanh sáng tươi hơn so với hầu hết các loại ô long Vũ Di. Vị ngọt ngào, trái cây, hoa, hương vị rất tươi mát.
- Bạch Kê Quan (Bai Ji Guan/ Bai Jiguan / 白鸡冠). Có lá vàng đến xanh nhạt chứ không xanh đậm hoặc nâu như các loại khác, vị khá khác biệt, ngọt ngào, êm dịu và nhẹ nhàng.
Ngoài ra trà ô long Vũ Di còn có còn trà khác như:
- Nhục quế (Rougui tea / 肉桂茶 còn gọi là Ngọc quế /玉桂 ) được nhiều người ưa chuộng do có vị cay nồng và mùi thơm lâu. Trà Nhục quế có mùi quế rõ rệt, màu nước vàng trong. Loại Vũ Di nham Nhục quế trà có nguồn gốc từ Mã Chấm Phong, một trong ba mươi sáu đỉnh núi ở dãy núi Vũ Di.
- Thủy tiên trà (Shui Hsien/ 水仙茶) thơm nồng mật ong.Thủy tiên trà chia ra 3 loại sản phẩm: một loại làm từ cây trà hàng trăm năm tuổi, trà này gọi là trà Lao cong hay là bụi trà già (old bush) – là loại trà Thủy tiên đắt nhất, một loại trà già lão hóa mấy chục năm và được sấy lại bằng lò, một loại trồng ở thành phố Chương Bình (Zhangping, Phúc Kiến) với tên gọi Chương Bình Thủy Tiên.
- Hoàng Quan Âm (Huang Guanyin / 黄观音茶) có hương vị kem, hoặc được cuộn chặt như ô long An Tây hoặc ở dạng rời như ô long Vũ Di thông thường.
Hiện nay một số nhà nghiên cứu về trà không xếp Hồng trà chế biến từ cây trà núi Vũ Di vào loại Nham trà, ở Vũ di có 2 loại Hồng trà nổi tiếng đo là:
- Chính Sơn Tiểu Chủng(Lapsang souchong / 紅茶正山小种) được coi là “ông tổ” của Hồng trà truyền thống. Trà có vị trái cây, hương rừng rõ nét và đậm đà, nước trà màu hổ phách vô cùng ấn tượng. Ngày nay, có hai cách chế biến loại trà này: một loại có mùi lửa gỗ Tùng do được hun khói để hong khô bằng gỗ Tùng, một loại không có mùi gỗ. Lá trà hấp thụ mùi gỗ thông làm tăng hương vị rất nhiều, đôi khi mùi vị trà được so sánh giống hệt như một loại rượu whisky của Scotland.
- Kim Tuấn Mi (Jin Jun Mei/ 金骏眉茶/ Kỳ Môn hồng trà) – giống như Chính Sơn Tiểu Chủng nhưng chỉ sử dụng phần búp lá, khác với Chính Sơn Tiểu Chủng sử dụng toàn bộ lá trà. Kim Tuấn Mi (“Lông mày vàng của người đẹp” – golden eyebrows) có lá trà đen, mảnh và vàng kim, nước trà vàng, hương thơm hỗn hợp của trái cây, hoa, mật ong. Kim Tuấn Mi là kho báu cấp cao nhất rất hiếm, là loại trà tạo nên sự phổ biến nhanh chóng của hồng trà ở chính Trung Quốc, được mệnh danh là Hồng trà ngon nhất thế giới.